Cơ bản về kỹ thuật siêu âm tuyến giáp

Thăm khám siêu âm vùng cổ nói chung và tuyến giáp nói riêng cần sử dụng loại đầu dò phẳng (linear) có tần số cao, dải tần số có thể từ 5 đến 13 MHz, thường sử dụng nhất và có độ phân giải phù hợp là đầu dò 7,5 – 10 MHz. Những đầu dò tần số cao có trường thăm khám gần, độ phân giải cao, cho phép hiển thị tốt các cấu trúc nhỏ trong tuyến giáp như vi vôi hóa, các vách, các cấu trúc dây thần kinh, các hạch vùng. Mặt khác, tuyến giáp là một trong những tạng giầu mạch nhất trong cơ thể, do vậy cần thực hiện ở những máy có khẳ năng thăm khám Doppler.

Kỹ thuật siêu âm tuyến giáp gồm một số điểm cơ bản như sau:

Đầu dò siêu âm

Thăm khám siêu âm vùng cổ nói chung và tuyến giáp nói riêng cần sử dụng loại đầu dò phẳng (linear) có tần số cao, dải tần số có thể từ 5 đến 13 MHz, thường sử dụng nhất và có độ phân giải phù hợp là đầu dò 7,5 – 10 MHz. Những đầu dò tần số cao có trường thăm khám gần, độ phân giải cao, cho phép hiển thị tốt các cấu trúc nhỏ trong tuyến giáp như vi vôi hóa, các vách, các cấu trúc dây thần kinh, các hạch vùng. Mặt khác, tuyến giáp là một trong những tạng giầu mạch nhất trong cơ thể, do vậy cần thực hiện ở những máy có khẳ năng thăm khám Doppler.

Đầu dò 5 MHz Đầu dò 7,5 MHz Đầu dò đa tần 4-10MHz

Tư thế thăm khám

Bệnh nhân nằm ngửa, bộc lộ rộng vùng cổ, tháo bỏ đồ trang sức nếu có, kê đệm hoặc gối ở dưới cổ và vai nhằm để cổ ưỡn cao. Chú ý trong khi thăm khám, cần thực hiện một số thao tác như cho bệnh nhân nuốt, xoay cổ, làm nghiệm pháp Valsava, nhằm phân biệt nguồn gốc của tổn thương cũng như chẩn đoán phân biệt, chẩn đoán xác định.

Vùng cổ trước và bên được bộc lộ hoàn toàn. Cổ áo kéo thấp, tháo bỏ đồ trang sức. Có kê gối nhỏ ở dưới vùng cổ và vai. Người bệnh thư giãn và thả lỏng toàn thân

Kỹ thuật siêu âm

Bắt đầu với cúp cắt ngang kéo từ trên xuống dưới dọc theo khí quản để đánh giá tổng quát chung về tình trạng tuyến giáp. Sau đó đánh giá từng thùy tuyến và eo tuyến.

Thực hiện lớp cắt ngang tổng quát qua các thùy, eo tuyến giáp

Để đánh giá mỗi thùy tuyến, cần xoay nhẹ đầu bệnh nhân sang bên đối diện với thùy tuyến định thăm khám, thực hiện các cúp cắt ngang từ cực trên tới cực dưới, với trục thăm khám là bó mạch cảnh. Tiếp theo, xoay đầu dò vuông góc với hướng cắt ngang, thực hiện các lớp cắt dọc qua trục lớn của thùy tuyến. Như vậy chúng ta có thể xác định được các kích thước dọc, dày, rộng theo 3 chiều không gian. Thực hiện các thao tác tương tự cho thùy tuyến bên còn lại, chú ý phải xoay nghiên đầu về bên đối diện với thùy tuyến được thăm khám.

Hình minh họa cắt dọc qua trục lớn của thùy phải tuyến giáp

 Để đánh giá vùng eo tuyến, đầu bệnh nhân thẳng, không nghiên bên nào, thực hiện các lớp cắt ngang từ vùng dưới xương móng đến nền cổ (trên hõm ức) và lớp cắt dọc giữa theo trục khí quản.

Hình minh họa cắt dọc qua eo tuyến giáp. Ngay phía sau eo tuyến giáp là các vòng sụn khí quản

Ngoài ra, chúng ta cũng thực hiện các lớp cắt ngang, dọc theo trục của bó mạch cảnh, đánh giá các cấu trúc có trong máng cảnh (cơ ức đòn chũm, động mạch cảnh, tĩnh mạch cảnh và có thể cả dây X), các hạch dọc cơ ức đòn chũm. Cuối cùng, thực hiện thêm các lớp cắt ngang ở vùng cổ bên, vùng dưới hàm hai bên để phát hiện các bệnh lý khác.

Trong một số trường hợp, cần khảo sát siêu âm Doppler mầu và/hoặc siêu âm Doppler năng lượng, để đánh giá tình trạng huyết động của tổn thương.

Ths.Bs.Đào Danh Vĩnh

Viết bình luận